Tham  dự Hội thảo có hơn 100 đại biểu quốc hội (ĐBQH), đại diện lãnh đạo một  số bộ, ngành, Tòa án nhân dân Tối cao,Viện Kiểm sát nhân dân tối cao,  các ngân hàng thương mại (NHTM), các chuyên gia kinh tế, luật sư… cùng  tham gia thảo luận. 
 

Bàn chủ trì Hội thảo
 
Theo  báo cáo tại Hội thảo, dưới sự chỉ đạo quyết liệt của NHNN, các tổ chức  tín dụng (TCTD) đã tích cực nâng cao chất lượng tài sản, kiểm soát chất  lượng tín dụng và xử lý nợ xấu, đặc biệt là nỗ lực tự xử lý nợ xấu bằng  các biện pháp đôn đốc thu hồi nợ, phát mại tài sản, thu hồi nợ từ thi  hành án, sử dụng dự phòng rủi ro… Tính đến thời điểm 01/2017, toàn hệ  thống các TCTD đã xử lý được 616,7 nghìn tỷ đồng nợ xấu, trong đó nợ xấu  do các TCTD tự xử lý là 349,7 nghìn tỷ đồng (chiếm 56,7% tổng số nợ xấu  được xử lý), còn lại là bán nợ cho các tổ chức, cá nhân khác (chiếm  43,3%). Theo đó, nợ xấu đã được kiềm chế, đưa tỷ lệ nợ xấu nội bảng đến  cuối tháng 02/2017 về mức 2,56% tổng dư nợ tín dụng. Kết quả xử lý nợ  xấu của TCTD qua VAMC, lũy kế từ năm 2013 đến 31/3/2017, tổng số tiền  thu hồi nợ qua VAMC đạt 53.236 tỷ đồng.
 
Phát  biểu tại Hội thảo, Phó Thống đốc NHNN Nguyễn Kim Anh cho biết, quá  trình xử lý nợ xấu đến nay cho thấy còn nhiều khó khăn, vướng mắc chưa  được tháo gỡ, đặc biệt quy định của pháp luật đối với việc xử lý tài sản  bảo đảm để thu hồi nợ còn nhiều bất cập làm giảm hiệu quả của việc xử  lý nợ xấu. Trong đó có một số điểm mấu chốt sau: 
 
Thứ nhất,  nhiều quy định của pháp luật chưa bảo vệ quyền chủ nợ hợp pháp của TCTD  /VAMC, cản trở việc tạo lập và phát triển thị trường mua bán nợ xấu.
 
Thứ hai,  các quy định của pháp luật về xử lý tài sản bảo đảm còn nhiều vướng  mắc, bất cập, không bảo đảm quyền xử lý tài sản bảo đảm của bên nhận bảo  đảm.
 
Thứ ba,  thời gian xử lý nợ, tài sản bảo đảm qua tòa án không hiệu quả (thời  gian giải quyết khoảng 400 ngày nhưng thực tế là khoảng 2 năm; chi phí  chiếm khoảng: 29% giá trị đòi nợ; chỉ số chất lượng tố tụng tư pháp của  Việt Nam chỉ đạt 6,5/18). Trong khi đó, pháp luật về tố tụng dân sự chưa  cho phép áp dụng thủ tục rút gọn  trong giải quyết tranh chấp về nghĩa vụ giao tài sản bảo đảm của bên bảo  đảm và quyền xử lý tài sản bảo đảm của bên nhận bảo đảm.
 

Phó Thống đốc Nguyễn Kim Anh phát biểu tại Hội thảo
 
Theo  Phó Thống đốc Nguyễn Kim Anh, để tháo gỡ triệt để được những  khó khăn, vướng mắc trên và thúc đẩy nhanh quá cơ cấu lại hệ  thống các TCTD gắn với xử lý nợ xấu trong giai đoạn 2016 - 2020 cần  thiết phải có một văn bản pháp lý do Quốc hội ban hành mới  đảm bảo tính pháp lý và khả thi trong tổ chức thực hiện. 
 
Cùng  với việc phản ánh, thảo luận về nhiều bất cập trong các quy định hiện  hành và thực tế của các TCTD trong xử lý tài sản bảo đảm, Hội thảo ghi  nhận nhiều kiến nghị cần tiếp tục hoàn thiện khung pháp lý về quyền xử  lý tài sản bảo đảm của các TCTD cũng như trách nhiệm tôn trọng, bảo vệ  quyền xử lý tài sản bảo đảm của cơ quan tư pháp các cấp.
 
Các  diễn giả cho rằng, quan điểm xây dựng và thực thi pháp luật hiện nay  cần phải được thay đổi. Với vai trò là trung gian tài chính, số tiền  TCTD cho vay được huy động từ người gửi tiền. Việc không cho phép thực  hiện quyền thu giữ tài sản bảo đảm của TCTD sẽ ảnh hưởng lớn đến khả  năng thu hồi nợ của TCTD, có thể gây ra tình trạng TCTD không thu hồi  được các khoản nợ này. Khi TCTD không thu hồi được nợ thì sẽ ảnh hưởng  đến khả năng thanh khoản, khả năng chi trả các khoản tiền gửi đến hạn đã  huy động để cho vay trước đây (tiền gửi của cá nhân). Như vậy, việc  TCTD không được quyền thu giữ tài sản bảo đảm như các quy định trước đây  có thể ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của đa số người gửi tiền. Hay  nói cách khác, việc bảo vệ quyền của khách hàng chây ỳ, vi phạm cam kết  theo hợp đồng sẽ có thể ảnh hưởng lớn đến quyền hợp pháp của đa số người  gửi tiền, tiềm ẩn rủi ro gây mất an toàn hệ thống TCTD, an toàn trật tự  xã hội. Do vậy, việc cho phép TCTD được quyền thu giữ tài sản bảo đảm  là biện pháp quan trọng để bảo đảm quyền lợi người gửi tiền phù hợp với  Nghị quyết của Đảng,Quốc hội. 
 
Tại  Hội thảo, Phó Thống đốc Nguyễn Kim Anh cũng cho biết, Chính phủ đã  giao NHNN chủ trì xây dựng Nghị quyết của Quốc hội về xử lý nợ xấu của  các TCTD để Chính phủ trình Quốc hội xem xét, thông qua tại Kỳ  họp thứ 3, Quốc hội Khóa XIV. Các  nội dung của dự thảo Nghị quyết đã được NHNN, các bộ, ngành  và Chính phủ chuẩn bị công phu trên cơ sở nghiên cứu thấu đáo  các quy định của Hiến pháp, pháp luật hiện hành có liên quan;  kinh nghiệm xử lý nợ xấu trong nước thời gian qua cũng như thông  lệ quốc tế. Có thể nói, Bản dự thảo Nghị quyết là sản phẩm chung của  nhiều cơ quan, nhiều chuyên gia, nhiều luật sư nhằm đảm bảo tính  hợp hiến, hợp pháp, tính khả thi và hiệu quả khi tổ chức  thực hiện.
 
Phó  Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế Quốc hội Nguyễn Đức Kiên cho rằng, điểm chú ý  trong Dự thảo Nghị quyết này là không phân biệt nợ xấu của NHTM nhà nước  hay NHTM cổ phần. Nghị quyết này chỉ xử lý số nợ xấu đến ngày  31/12/2016. Với các nợ xấu hình thành từ năm 2017, các ngân hàng phải  thực hiện theo Luật các TCTD hiện hành và cần thiết sẽ phải sửa đổi một  số điều như trong Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật TCTD mà Quốc  hội sẽ xem xét bỏ phiếu thông qua vào kì họp thứ 4, Quốc hội khóa XIV.
 
Theo các phát biểu của nhiều đại biểu tại Hội thảo,  việc hoàn thiện khuôn khổ pháp lý xử lý nợ xấu bằng việc ban hành một  văn bản chuyên ngành để xử lý nợ xấu dưới hình thức Nghị quyết của Quốc  hội là rất cần thiết, phù hợp, nhằm thể chế hóa chủ trương chính sách của Đảng và  cần thực hiện ngay để kịp thời thực hiện các nhiệm vụ theo Nghị quyết  của Quốc hội, Chính phủ, cũng như đáp ứng yêu cầu cấp bách của thực  tiễn. Các chính sách quy định tại  Nghị quyết được đánh giá là thiết thực, cần thiết, phù hợp với thông lệ  quốc tế, bảo đảm tính khả thi, bảo đảm quyền chủ nợ hợp pháp, chính sách  của TCTD, VAMC, quyền lợi của người gửi tiền, cũng như các bên có liên  quan; khắc phục các vướng mắc, bất cập của hệ thống pháp luật về xử lý  nợ xấu, xử lý tài sản bảo đảm trong thời quan qua.
 
Bên  cạnh đó, các đại biểu cũng đánh giá cao những nội dung quy định tại dự  thảo Nghị quyết, trong đó nhấn mạnh đến vai trò của các cơ quan nhà  nước, từ các cơ quan Chính phủ cho đến các cơ quan tư pháp (Tòa án, Viện  Kiểm sát nhân dân tối cao) trong quá trình giám sát, triển khai, tổ  chức thực hiện Nghị quyết này có ý nghĩa quan trọng để bảo đảm khả năng  thực thi của Nghị quyết trong thực tế.
 
Theo SBV